Translate

Thứ Ba, 23 tháng 2, 2016

Đại học có phải là con đường duy nhất để thành công?

Sưu tầm
Ảnh sưu tầm
Thi đỗ Đại học là niềm mơ ước của hầu hết học sinh phổ thông, là niềm tự hào của gia đình, dòng họ. Các bạn Học sinh, các bậc phụ huynh gần như tuyệt đối hóa việc vào Đại học, trong tư tưởng mọi người đều nghĩ phải học Đại học thì sau này mới có được công việc ổn định, mới được mọi người tôn trọng. Tuy nhiên, thực tế thì Đại học không phải là con đường duy nhất để đi đến thành công, có rất nhiều lựa chọn để đi đến thành công.

Trong những năm gần đây, các trường Đại học mọc ra ngày càng nhiều, đào tạo một cách tràn lan dẫn đến cung nguồn nhân lực chất lượng cao vượt quá cầu lao động, chính vì vậy số lượng người có trình độ Đại học, Cao đẳng thất nghiệp ngày càng nhiều.

Tổng lực lượng lao động nước ta hiện nay là 53,7 triệu người, trong đó có 47,4 triệu người trong độ tuổi lao động. Với quy mô như vậy, vấn đề giải quyết việc làm là thách thức lớn cho toàn xã hội.

Tính đến hết quý I năm 2014, cả nước có hơn 1 triệu người trong độ tuổi lao động thất nghiệp. Trong đó đáng chú ý là số lượng người thuộc nhóm lao động có trình độ cao khá lớn: Có hơn 160.000 người có trình độ Đại học trở lên bị thất nghiệp; hơn 79.000 người có trình độ Cao đẳng bị thất nghiệp. 

Trong khi tỷ lệ người thất nghiệp có trình độ Đại học, cao đẳng ngày càng gia tăng thì chúng ta lại thiếu trầm trọng đội ngũ lao động lành nghề. Việc “thừa thầy thiếu thợ” đã cản trở sự phát triển của đất nước.

Trong nhiều năm qua, cơ cấu đào tạo của nước ta bất hợp lý dẫn đến cơ cấu nguồn nhân lực cũng bất hợp lý. Tỷ lệ ĐH/THCN/CNKT ở nước ta là 1/2,5/7,1 (năm 1979); 1/1,6/2,3 (năm 1989); 1/0,83/0,6 (trong những năm 1990-1995); năm 2004 là 1/1,16/0,92; đến năm 2012 tỷ lệ này là 1/0,43/0,56.  

Trong khi đó ở các nước trên thế giới, tùy vào giai đoạn phát triển của khoa  học kỹ thuật người ta bố trí tỷ lệ này như sau:

-  Khu vực dịch vụ, tỷ lệ: ĐH/ TCCN/ nhân viên = 1/4/10.
- Khu vực công nghiệp, tỷ lệ: ĐH/ TCCN/ CNKT:
+ Ở giai đoạn cơ khí hóa: 1 kỹ sư + 4 trung cấp + 60 công nhân kỹ thuật lành nghề + 20 công nhân bán lành nghề và 15 lao động phổ thông.
+ Ở giai đoạn thiết bị tự động hóa một phần trong từng khu vực, cơ cấu nhân lực được bố trí là: 1 cán bộ nghiên cứu + 17 kỹ sư + 21 kỹ thuật viên + 60 công nhân lành nghề + 11 công nhân bán lành nghề, không có lao động phổ thông.
+ Ở giai đoạn tự động hóa toàn bộ mang hệ thống chương trình và công nghệ thông tin phát triển thì cơ cấu nhân lực được bố trí theo hình tháp cụt: 4 cán bộ nghiên cứu + 25 kỹ sư + 50 kỹ thuật viên + 21 công nhân lành nghề.

Các nhà khoa học cho rằng: Nhìn chung trong suốt các giai đoạn tiến bộ kỹ thuật, lực lượng nòng cốt của nền sản xuất công nghiệp bao giờ cũng vẫn là công nhân lành nghề, chỉ khi nào bước sang nền kinh tế hậu công nghiệp (kinh tế tri thức) thì những người công nhân lành nghề ấy chuyển hóa dần thành kỹ thuật viên trung cấp và kỹ sư.

Cụ thể hơn, ở Malaysia, tỷ lệ kỹ sư - cán bộ kỹ thuật - công nhân lành nghề ở Malaysia là 1 - 4 – 10; Ở Hàn Quốc trong những năm 1985 (giữa thời kỳ công nghiệp hóa của Hàn Quốc) cơ cấu này là 1/5/25.

Nhìn ở góc độ nhỏ hơn, như ở tập đoàn Samsung, khi đầu tư vào Việt Nam họ bố trí cứ 100 lao động thì có 4,5% kỹ sư , 16,7% trung cấp, 65,8% Công nhân kỹ thuật, 13,5% lao động phổ thông (nguồn Tổng cục dạy nghề).

Nhìn vào những số liệu đó và nhìn vào tình hình phát triển kinh tế của nước ta hiện nay, ta có thể thấy ngay được những bất hợp lý trong cơ cấu nguồn nhân lực của nước ta.

Phân tích như vậy để thấy được rằng, nước ta đang thừa những người có trình độ Đại học, cao đẳng và thiếu trầm trọng đội ngũ công nhân lành nghề. Các bạn học sinh có nhiều sự lựa chọn, thậm chí lựa chọn tốt hơn nhiều so với việc học Đại học.

Không vào được Đại học nhưng cơ hội của các bạn còn rất nhiều, nhiều cánh cửa khác đang chờ đón các bạn. Đừng buồn nếu bạn không thi đỗ Đại học, hãy chọn cho mình một nghề phù hợp để sau này có được công việc ổn định, nuôi sống bản thân, nuôi sống gia đình và đóng góp cho sự phát triển của đất nước.

Trung Hiếu

(Bài viết sử dụng số liệu của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội và trong bài viết "Cải cách cơ cấu hệ thống giáo dục quốc dân đáp ứng nhu cầu nhân lực trong bối cảnh toàn cầu hóa" của PGS.TS Đặng Duy Ánh - Viện nghiên cứu đào tạo và tư vấn khoa học).

Thứ Bảy, 30 tháng 1, 2016

MUỐN LÀM ĐẦY TỚ

Hai ông cháu nói chuyện với nhau:

- Học xong cháu muốn đi làm đầy tớ ông ạ! Làm đầy tớ cho càng nhiều người thu nhập càng cao…
- Tiên sư nhà mày, bố mẹ mày đầu tư cho mày bao nhiêu là tiền của để mày học hành thành người, thành ông nọ bà kia, giờ mày lại đòi đi làm đầy tớ? 
- Ông chưa biết rồi, đầy tớ sướng lắm, ông chủ mới khổ ông ạ 
- Sướng cái mả cha mày! 
- Ông không tin à? Ông chủ đi làm bục mặt ra lương được 3-4 triệu 1 tháng nhưng phải trả bọn đầy tớ đến hơn chục triệu một tháng, thế mà chúng nó còn kêu không đủ sống. 
- Ở đâu lại có chuyện lạ thế? 
- Chưa hết, ông mà sai nó việc gì phải nói ngon nói ngọt, không nói ngon nói ngọt thì nó đuổi về ngay, ông chủ đi ra đường mà chẳng may vi phạm luật giao thông thì nó tuýt lại nó phạt ngay vài trăm và lấy ngay tiền đấy đi uống bia, chơi bời. 
- Làm gì có chuyện đấy? 
- Thế chưa ăn thua, ông chủ trả lương cho nó rồi nhưng mà khi sai nó làm việc gì mà không dúi cho nó cái phong bì thì nó không làm hoặc ngâm cho vài tháng hoặc cho ông chủ đi lại đến mỏi chân thì thôi. 
- Sao lại có chuyện lạ đời thế được? 
- Ông chủ mà chẳng may có phạm pháp thì cứ pháp luật mà thực thi, có khi còn bị đè ra mà nhận tội, còn đày tớ mà nó phạm tội thì được giảm nhẹ vì đã có nhiều năm làm đầy tớ, ông chủ... 
- Mày im ngay đi, mày tưởng tao già rồi không biết gì nên mày lừa tao chứ gì? Từ đời cha sinh mẹ đẻ đến giờ có bao giờ đầy tớ lại sướng hơn ông chủ đâu? Mày mà không từ bỏ cái ý định đi làm đầy tớ đi thì cứ liệu hồn với tao, đừng có mà nhìn mặt tao nữa…

Thứ Sáu, 11 tháng 9, 2015

TIỀN LƯƠNG LÀ TÀI SẢN BẤT KHẢ XÂM PHẠM CỦA NGƯỜI LAO ĐỘNG


Mỗi năm đến mùa mưa bão đồng bào miền Trung nước ta lại hứng chịu những trận mưa lũ gây ảnh hưởng lớn đến đời sống, và cũng mỗi khi như vậy tinh thần tương thân, tương ái của người dân Việt Nam được dịp trào dâng. Trong các doanh nghiệp, cơ quan lại sôi sục tinh thần ủng hộ đồng bào bị bão lũ, một số đơn vị kêu gọi mỗi người lao động ủng hộ 1 ngày lương hoặc một số tiền nhất định để ủng hộ đồng bào bị thiên tai. Tuy nhiên, cũng có không ít doanh nghiệp, đơn vị không kêu gọi ủng hộ theo đúng nghĩa mà trừ thẳng tiền lương của người lao động mà không có sự đồng ý của người lao động, thậm chí không thông báo cho người lao động việc trừ tiền lương, có một số doanh nghiệp cẩn thận hơn chút thì làm thông báo có sự nhất trí của Người sử dụng lao động và Chủ tịch công đoàn sau đó tự động trừ thẳng vào tiền lương của người lao động. Việc tự động trừ tiền lương của người lao động xét ở góc độ pháp lý là không phù hợp.

1. Tiền lương là tài sản của người lao động.

Điều 170, Bộ Luật Dân sự năm 2005 quy định một trong những trường hợp được xác lập quyền sở hữu đối với tài sản đó là do lao động, do hoạt động sản xuất, kinh doanh hợp pháp. 

Như vậy, tiền lương là do người lao động bỏ sức lao động hợp pháp để tạo ra nên người lao động đó được xác lập quyền sở hữu tài sản đối với tiền lương của mình. Khi đã sở hữu tài sản đó thì người ta có đầy đủ ba quyền: Quyền chiếm hữu; Quyền sử dụng; Quyền định đoạt. Đó là những quyền bất khả xâm phạm nếu không được người sở hữu tài sản đồng ý.

2. Người sử dụng lao động có quyền trừ tiền lương của người lao động để làm từ thiện?

Tiền lương là khoản tiền mà người sử dụng lao động trả cho người lao động để thực hiện một công việc theo sự thỏa thuận giữa hai bên.

Người sử dụng lao động phải trả đủ lương cho người lao động. Nếu họ không vi phạm pháp luật lao động dẫn đến phải khấu trừ tiền lương (Điều 101 và Điều 130 Bộ luật Lao động năm 2012) thì người sử dụng lao động không thể trừ được.

Như phân tích ở trên, tiền lương là tài sản của người lao động, chính vì vậy, họ được quyền sở hữu tài sản của mình, người sử dụng lao động không được phép thực hiện thay họ bất cứ quyền nào trong 3 quyền được hình thành khi họ được sở hữu tài sản (quyền chiếm hữu, quyền sử dụng, quyền định đoạt) nếu không được sự đồng ý của họ.

Như vậy, người sử dụng lao động không thể khấu trừ tiền lương của người lao động để ủng hộ quỹ nào đó khi chưa được sự đồng ý của người lao động.

3. Ban chấp hành công đoàn có quyền đồng ý để khấu trừ tiền lương của người lao động để làm từ thiện khi họ chưa đồng ý?

Về bản chất, Ban chấp hành công đoàn là tổ chức Đại diện, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động. Cần nhấn mạnh ở đây là Ban chấp hành công đoàn là tổ chức đại diện và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp chính đáng của người lao động chứ không phải đại diện những cái không chính đáng và không hợp pháp. Ban chấp hành công đoàn không được phép đại diện cho người lao động ngoài các quan hệ lao động theo quy định của pháp luật và các quan hệ khác khi chưa được sự đồng ý của người lao động.

Việc khấu trừ tiền lương của người lao động chỉ được thực hiện theo quy định của Bộ Luật lao động năm 2012 (Điều 101 và Điều 130).

Trong trường hợp trên, có lẽ Ban chấp hành công đoàn đã dựa vào cách hiểu Công đoàn là tổ chức đại diện cho người lao động nên có quyền quyết định hộ người lao động việc khấu trừ tiền lương để ủng hộ đồng bào lũ lụt. Tuy nhiên, trong trường hợp này việc đồng ý khấu trừ tiền lương của người lao động đồng nghĩa với việc Ban chấp hành công đoàn đã thực hiện quyền định đoạt tài sản của người lao động khi chưa được sự đồng ý của người lao động. Điều này là hoàn toàn không phù hợp với quy định của Bộ Luật dân sự về quyền sở hữu tài sản của cá nhân. 

Luật Công đoàn năm 2012 cũng như các văn bản hiện hành chưa có bất cứ chữ nào, dòng nào ghi Ban chấp hành Công đoàn có quyền định đoạt tài sản của người lao động.

Như vậy, có thể kết luận: Tiền lương là tài sản của người lao động, không ai có quyền định đoạt, sử dụng hay chiếm hữu nếu chưa được sự đồng ý của người lao động. Ban chấp hành công đoàn hoặc người sử dụng lao động không được phép đồng ý cho bất cứ cá nhân, tổ chức nào khấu trừ tiền lương của người lao động, nếu muốn trừ tiền lương của người lao động để ủng hộ bất cứ ai, sử dụng vào bất cứ mục đích gì phải được sự đồng ý của người lao động. Nếu không được sự đồng ý của người lao động thì việc khấu trừ tiền lương là vi phạm pháp luật.