Translate

Thứ Sáu, 6 tháng 5, 2016

TRẢ LƯƠNG CHO NGƯỜI TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC LÀM CÔNG NHÂN THẾ NÀO?

Theo số liệu của bản tin thị trường lao động quý II năm 2016, số lượng người có trình độ Đại học thất nghiệp khoảng 191 nghìn 300 người, trong số những cử nhân thất nghiệp này có một số ít chấp nhận làm những công việc đòi hỏi thấp hơn trình độ của mình, điển hình như việc nhiều người chủ động ứng tuyển vào vị trí công nhân tại các khu công nghiệp. Những người này nếu đi làm công nhân thì sẽ được trả lương ra sao?

Trước hết, cần khẳng định rằng việc trả lương phải căn cứ vào nhiều yếu tố, tiền lương tối thiểu chỉ là một trong căn cứ. Để người lao động yên tâm làm việc thì doanh nghiệp phải trả mức lương hợp lý, đảm bảo tính công bằng nội bộ và công bằng so với thị trường lao động. Đối với trường hợp này, mình nêu quan điểm dựa trên vấn đề đúng sai khi trả lương tối thiểu.

Việc trả tiền lương cho người tốt nghiệp Đại học đi làm công nhân hiện tại có 2 Nghị định quy định đó là Nghị định 49/2013/NĐ-CP và Nghị định 122/2015/NĐ-CP. Hai Nghị định này đang mâu thuẫn với nhau. Cụ thể như sau:


1. Doanh nghiệp được phép trả lương như đối với lao động phổ thông chưa qua học nghề, đào tạo nghề

Theo điểm b, khoản 3, Điều 7, Nghị định 49/2013/NĐ-CP ngày 14 tháng 05 năm 2013 quy định chi tiết một số điều của Bộ luật lao động về tiền lương: "Tiền lương thấp nhất của CÔNG VIỆC HOẶC CHỨC DANH đòi hỏi người lao động phải qua đào tạo, học nghề (kể cả do doanh nghiệp tự dạy nghề) phải cao hơn ít nhất 7% so với mức lương tối thiểu vùng do chính phủ quy định".

Quy định này hướng doanh nghiệp trả lương theo vị trí công việc chứ không quy định trả lương theo bằng cấp của người lao động. Nghĩa là theo quy định này, doanh nghiệp hoàn toàn có thể trả lương dựa theo yêu cầu của vị trí công việc. Giả sử doanh nghiệp quy định vị trí công nhân chỉ yêu cầu lao động phổ thông, không cần phải qua đào tạo nghề và điều kiện làm việc không nặng nhọc, độc hại thì doanh nghiệp có thể trả tiền lương của vị trí công nhân bằng với mức lương tối thiểu vùng theo quy định. Ngược lại, nếu doanh nghiệp yêu cầu vị trí công nhân phải qua đào tạo, học nghề thì khi trả lương phải ít nhất cao hơn 7% so với mức lương tối thiểu vùng. 

Như vậy, nếu áp dụng Nghị định này, doanh nghiệp có thể trả lương cho người tốt nghiệp Đại học đi làm công nhân bằng mức lương tối thiểu vùng đối với lao động phổ thông chưa qua đào tạo nghề với điều kiện là phải có văn bản quy định yêu cầu đối với vị trí công nhân không yêu cầu phải học nghề hoặc đào tạo.

2. Doanh nghiệp phải trả lương ít nhất cao hơn 7% so với mức lương tối thiểu vùng

Điểm b, khoản 1, Điều 5, Nghị định 122/2015/NĐ-CP ngày 14 tháng 11 năm 2015 quy định mức lương tối thiểu vùng đối với người lao động làm việc tại các doanh nghiệp, liên hiệp hợp tác xã, tổ hợp tác, trang trại, hộ gia đình, cá nhân và các cơ quan tổ chức có sử dụng lao động theo hợp đồng thì tiền lương trả cho người lao động đã học nghề: "Cao hơn ít nhất 7% so với mức tiền lương tối thiểu vùng đối với NGƯỜI LAO ĐỘNG đã qua học nghề theo quy định tại khoản 2, Điều này".

Người lao động đã qua học nghề bao gồm các trường hợp sau (Khoản 2, Điều 5, Nghị định 122/2015/NĐ-CP):

a) Người đã được cấp chứng chỉ nghề, bằng nghề, bằng trung học chuyên nghiệp, bằng trung học nghề, bằng cao đẳng, chứng chỉ đại học đại cương, bằng đại học, bằng cử nhân, bằng cao học hoặc bằng thạc sĩ, bằng tiến sĩ theo quy định tại Nghị định số 90/CP ngày 24 tháng 11 năm 1993 của Chính phủ quy định cơ cấu khung của hệ thống giáo dục quốc dân, hệ thống văn bằng, chứng chỉ về giáo dục và đào tạo;

b) Người đã được cấp bằng tốt nghiệp trung học chuyên nghiệp, bằng tốt nghiệp đào tạo nghề, bằng tốt nghiệp cao đẳng, bằng tốt nghiệp đại học, bằng thạc sĩ, bằng tiến sĩ; văn bằng, chứng chỉ giáo dục nghề nghiệp; văn bằng giáo dục đại học và văn bằng, chứng chỉ giáo dục thường xuyên theo quy định tại Luật Giáo dục năm 1998 và Luật Giáo dục năm 2005;

c) Người đã được cấp chứng chỉ theo chương trình dạy nghề thường xuyên, chứng chỉ sơ cấp nghề, bằng tốt nghiệp trung cấp nghề, bằng tốt nghiệp cao đẳng nghề hoặc đã hoàn thành chương trình học nghề theo hợp đồng học nghề quy định tại Luật Dạy nghề; 

d) Người đã được cấp chứng chỉ kỹ năng nghề quốc gia theo quy định của Luật Việc làm; 

đ) Người đã được cấp văn bằng, chứng chỉ giáo dục nghề nghiệp đào tạo trình độ sơ cấp, trung cấp, cao đẳng; đào tạo thường xuyên và các chương trình đào tạo nghề nghiệp khác theo quy định tại Luật Giáo dục nghề nghiệp; 

e) Người đã được cấp bằng tốt nghiệp trình độ đào tạo của giáo dục đại học theo quy định tại Luật Giáo dục đại học; 

g) Người đã được cấp văn bằng, chứng chỉ của cơ sở đào tạo nước ngoài; 

h) Người đã được doanh nghiệp đào tạo nghề hoặc tự học nghề và được doanh nghiệp kiểm tra, bố trí làm công việc đòi hỏi phải qua đào tạo nghề.

Nếu áp dụng quy định này, người lao động đã qua học nghề thì mặc định được hưởng mức lương cao hơn ít nhất 7% so với mức lương tối thiểu vùng mà không quan tâm đến vị trí công việc doanh nghiệp yêu cầu như thế nào. Đối chiếu với quy định này thì người lao động đã tốt nghiệp Đại học mà làm công nhân thì tiền lương doanh nghiệp phải trả ít nhất cao hơn mức lương tối thiểu vùng là 7%.

Như vậy, việc doanh nghiệp áp dụng 1 trong 2 Nghị định trên đều không sai. Khi cơ quan Nhà nước kiểm tra thì phải trích dẫn được cơ sở pháp lý thì sẽ không lo bị xử lý.

Nếu doanh nghiệp vẫn muốn trả mức lương của người tốt nghiệp Đại học bằng mức lương của lao động phổ thông thì nên thể hiện trên văn bản chính thức (Hợp đồng lao động hoặc các văn bản tương đương) rằng người lao động đó là lao động phổ thông.

Ngoài ra, khi trả lương doanh nghiệp cần phải quan tâm đến các quy định khác về điều kiện làm việc. Các quy định này đã quy định rõ trong nghị định 49/2013/NĐ-CP.

Thứ Ba, 23 tháng 2, 2016

Đại học có phải là con đường duy nhất để thành công?

Sưu tầm
Ảnh sưu tầm
Thi đỗ Đại học là niềm mơ ước của hầu hết học sinh phổ thông, là niềm tự hào của gia đình, dòng họ. Các bạn Học sinh, các bậc phụ huynh gần như tuyệt đối hóa việc vào Đại học, trong tư tưởng mọi người đều nghĩ phải học Đại học thì sau này mới có được công việc ổn định, mới được mọi người tôn trọng. Tuy nhiên, thực tế thì Đại học không phải là con đường duy nhất để đi đến thành công, có rất nhiều lựa chọn để đi đến thành công.

Trong những năm gần đây, các trường Đại học mọc ra ngày càng nhiều, đào tạo một cách tràn lan dẫn đến cung nguồn nhân lực chất lượng cao vượt quá cầu lao động, chính vì vậy số lượng người có trình độ Đại học, Cao đẳng thất nghiệp ngày càng nhiều.

Tổng lực lượng lao động nước ta hiện nay là 53,7 triệu người, trong đó có 47,4 triệu người trong độ tuổi lao động. Với quy mô như vậy, vấn đề giải quyết việc làm là thách thức lớn cho toàn xã hội.

Tính đến hết quý I năm 2014, cả nước có hơn 1 triệu người trong độ tuổi lao động thất nghiệp. Trong đó đáng chú ý là số lượng người thuộc nhóm lao động có trình độ cao khá lớn: Có hơn 160.000 người có trình độ Đại học trở lên bị thất nghiệp; hơn 79.000 người có trình độ Cao đẳng bị thất nghiệp. 

Trong khi tỷ lệ người thất nghiệp có trình độ Đại học, cao đẳng ngày càng gia tăng thì chúng ta lại thiếu trầm trọng đội ngũ lao động lành nghề. Việc “thừa thầy thiếu thợ” đã cản trở sự phát triển của đất nước.

Trong nhiều năm qua, cơ cấu đào tạo của nước ta bất hợp lý dẫn đến cơ cấu nguồn nhân lực cũng bất hợp lý. Tỷ lệ ĐH/THCN/CNKT ở nước ta là 1/2,5/7,1 (năm 1979); 1/1,6/2,3 (năm 1989); 1/0,83/0,6 (trong những năm 1990-1995); năm 2004 là 1/1,16/0,92; đến năm 2012 tỷ lệ này là 1/0,43/0,56.  

Trong khi đó ở các nước trên thế giới, tùy vào giai đoạn phát triển của khoa  học kỹ thuật người ta bố trí tỷ lệ này như sau:

-  Khu vực dịch vụ, tỷ lệ: ĐH/ TCCN/ nhân viên = 1/4/10.
- Khu vực công nghiệp, tỷ lệ: ĐH/ TCCN/ CNKT:
+ Ở giai đoạn cơ khí hóa: 1 kỹ sư + 4 trung cấp + 60 công nhân kỹ thuật lành nghề + 20 công nhân bán lành nghề và 15 lao động phổ thông.
+ Ở giai đoạn thiết bị tự động hóa một phần trong từng khu vực, cơ cấu nhân lực được bố trí là: 1 cán bộ nghiên cứu + 17 kỹ sư + 21 kỹ thuật viên + 60 công nhân lành nghề + 11 công nhân bán lành nghề, không có lao động phổ thông.
+ Ở giai đoạn tự động hóa toàn bộ mang hệ thống chương trình và công nghệ thông tin phát triển thì cơ cấu nhân lực được bố trí theo hình tháp cụt: 4 cán bộ nghiên cứu + 25 kỹ sư + 50 kỹ thuật viên + 21 công nhân lành nghề.

Các nhà khoa học cho rằng: Nhìn chung trong suốt các giai đoạn tiến bộ kỹ thuật, lực lượng nòng cốt của nền sản xuất công nghiệp bao giờ cũng vẫn là công nhân lành nghề, chỉ khi nào bước sang nền kinh tế hậu công nghiệp (kinh tế tri thức) thì những người công nhân lành nghề ấy chuyển hóa dần thành kỹ thuật viên trung cấp và kỹ sư.

Cụ thể hơn, ở Malaysia, tỷ lệ kỹ sư - cán bộ kỹ thuật - công nhân lành nghề ở Malaysia là 1 - 4 – 10; Ở Hàn Quốc trong những năm 1985 (giữa thời kỳ công nghiệp hóa của Hàn Quốc) cơ cấu này là 1/5/25.

Nhìn ở góc độ nhỏ hơn, như ở tập đoàn Samsung, khi đầu tư vào Việt Nam họ bố trí cứ 100 lao động thì có 4,5% kỹ sư , 16,7% trung cấp, 65,8% Công nhân kỹ thuật, 13,5% lao động phổ thông (nguồn Tổng cục dạy nghề).

Nhìn vào những số liệu đó và nhìn vào tình hình phát triển kinh tế của nước ta hiện nay, ta có thể thấy ngay được những bất hợp lý trong cơ cấu nguồn nhân lực của nước ta.

Phân tích như vậy để thấy được rằng, nước ta đang thừa những người có trình độ Đại học, cao đẳng và thiếu trầm trọng đội ngũ công nhân lành nghề. Các bạn học sinh có nhiều sự lựa chọn, thậm chí lựa chọn tốt hơn nhiều so với việc học Đại học.

Không vào được Đại học nhưng cơ hội của các bạn còn rất nhiều, nhiều cánh cửa khác đang chờ đón các bạn. Đừng buồn nếu bạn không thi đỗ Đại học, hãy chọn cho mình một nghề phù hợp để sau này có được công việc ổn định, nuôi sống bản thân, nuôi sống gia đình và đóng góp cho sự phát triển của đất nước.

Trung Hiếu

(Bài viết sử dụng số liệu của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội và trong bài viết "Cải cách cơ cấu hệ thống giáo dục quốc dân đáp ứng nhu cầu nhân lực trong bối cảnh toàn cầu hóa" của PGS.TS Đặng Duy Ánh - Viện nghiên cứu đào tạo và tư vấn khoa học).

Thứ Bảy, 30 tháng 1, 2016

MUỐN LÀM ĐẦY TỚ

Hai ông cháu nói chuyện với nhau:

- Học xong cháu muốn đi làm đầy tớ ông ạ! Làm đầy tớ cho càng nhiều người thu nhập càng cao…
- Tiên sư nhà mày, bố mẹ mày đầu tư cho mày bao nhiêu là tiền của để mày học hành thành người, thành ông nọ bà kia, giờ mày lại đòi đi làm đầy tớ? 
- Ông chưa biết rồi, đầy tớ sướng lắm, ông chủ mới khổ ông ạ 
- Sướng cái mả cha mày! 
- Ông không tin à? Ông chủ đi làm bục mặt ra lương được 3-4 triệu 1 tháng nhưng phải trả bọn đầy tớ đến hơn chục triệu một tháng, thế mà chúng nó còn kêu không đủ sống. 
- Ở đâu lại có chuyện lạ thế? 
- Chưa hết, ông mà sai nó việc gì phải nói ngon nói ngọt, không nói ngon nói ngọt thì nó đuổi về ngay, ông chủ đi ra đường mà chẳng may vi phạm luật giao thông thì nó tuýt lại nó phạt ngay vài trăm và lấy ngay tiền đấy đi uống bia, chơi bời. 
- Làm gì có chuyện đấy? 
- Thế chưa ăn thua, ông chủ trả lương cho nó rồi nhưng mà khi sai nó làm việc gì mà không dúi cho nó cái phong bì thì nó không làm hoặc ngâm cho vài tháng hoặc cho ông chủ đi lại đến mỏi chân thì thôi. 
- Sao lại có chuyện lạ đời thế được? 
- Ông chủ mà chẳng may có phạm pháp thì cứ pháp luật mà thực thi, có khi còn bị đè ra mà nhận tội, còn đày tớ mà nó phạm tội thì được giảm nhẹ vì đã có nhiều năm làm đầy tớ, ông chủ... 
- Mày im ngay đi, mày tưởng tao già rồi không biết gì nên mày lừa tao chứ gì? Từ đời cha sinh mẹ đẻ đến giờ có bao giờ đầy tớ lại sướng hơn ông chủ đâu? Mày mà không từ bỏ cái ý định đi làm đầy tớ đi thì cứ liệu hồn với tao, đừng có mà nhìn mặt tao nữa…